Các lí do dẫn đến tranh chấp tín dụng

0
860

Tranh chấp tín dụng là gì? Có những hình thức và nguyên nhân nào dẫn đến tranh chấp tín dụng? Dưới đây là những tư vấn của một luật sư uy tín.

TÍN DỤNG VÀ TRANH CHẤP TÍN DỤNG

1.1. Hợp đồng tín dụng

Khoản 14, Điều 4 về “Giải thích từ ngữ”, Luật các Tổ chức tín dụng (TCTD) năm 2010 quy định “Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền thao nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác”. Các nghiệp vụ cấp tín dụng khác như tái chiết khấu, ứng trước, mua có bảo lưu quyền truy đòi (trừ các khoản mua có kỳ hạn) công cụ chuyển phát hành thẻ tín dụng, nhượng và giấy tờ có giá khác. Dưới đây gọi là tín dụng và hợp đồng tín dụng thay vì cấp tín dụng và hợp đồng cấp tín dụng không chính xác theo quy định của pháp luật hiện hành (vì trước đây gọi sai riêng hợp đồng cho vay là hợp đồng tín dụng, nên đã buộc phải gọi hợp đồng tín dụng nói chung là hợp đồng cấp tín dụng).

Đối với các TCTD, hợp đồng bảo lãnh ngân hàng được điều chỉnh theo quy định riêng của pháp luật ngân hàng đối với bảo lãnh ngân hàng, đồng thời theo quy định chung tại điều 335 về “Bảo lãnh”, Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015. Các quan hệ tín dụng khác ngoài hợp đồng cho vay và bảo lãnh ngân hàng như chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán thì không được quy định trong BLDS năm 2015, mà chủ yếu được hướng dẫn bằng các văn bản dưới luật. Trường hợp TCTD cấp tín dụng không đúng với quy định của luật thì có thể bị vô hiệu theo quy định tại Điều 124 về “Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo”, BLDS năm 2015. Chẳng hạn như việc cấp tín dụng cho vay dưới hình thức đặt cọc hàng trăm, thậm chí hàng nghìn tỷ đồng để mua, thuê nhà như đã xảy ra trong vụ án tại Ngân hàng Xây dựng.

Xem thêm >>> dịch vụ kế toán thuế tại Hà Nội

1.2. Tranh chấp tín dụng

Tranh chấp tín dụng được hiểu là tranh chấp về các hợp đồng tín dụng gồm hợp đồng cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các hợp đồng tín dụng khác.

Đối với hợp đồng cho vay, thì tranh chấp có thể là nợ gốc, nợ lãi, lãi suất, về mọi vấn đề liên quan đến hợp đồng cho vay như điều kiện vay, mục đích sử dụng vốn vay, hình thức bảo đảm, giá trị tài sản bảo đảm, phương thức trả nợ và các nội dung khác. Tuy nhiên, trên thực tế hợp đồng cho vay nói riêng, hợp đồng tín dụng nói chung, thường xảy ra các tranh chấp giống nhau tập trung vào số nợ gốc, các loại lãi suất, phí và việc xử lý tài sản bảo đảm.

Đối với các TCTD thì hợp đồng cho vay được điều chỉnh theo các quy định riêng của pháp luật ngân hàng đối với hợp đồng tín dụng, đồng thời theo quy định chung tại Điều 463 về “Hợp đồng vay tài sản”, BLDS năm 2015.

Riêng đối với hợp đồng bảo lãnh ngân hàng, khi các TCTD phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trả nợ thay, thì sẽ chuyển sang ghi nợ cho bên được bảo lãnh, do đó trở thành nghĩa vụ như đối với một hợp đồng cho vay. Khi đó lãi suất đối với nợ gốc trong hạn, lãi suất đối với nợ gốc quá hạn, lãi suất đối với nợ lãi quá hạn và lãi suất đối với khoản nợ chậm thi hành án sẽ được xử lý hoàn toàn giống với hợp đồng cho vay của các TCTD.

Trường hợp hợp đồng tín dụng vô hiệu thì hậu quả pháp lý là không tính lãi cho vay hay phí bảo lãnh theo quy định tại Điều 131 về “Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu”, BLDS năm 2015.

1.3. Tranh chấp bảo đảm tín dụng

Ngoài ra, quan hệ tín dụng thường gắn với tài sản bảo đảm tín dụng, nên cũng thường xảy ra tranh chấp về việc bảo quản, thu giữ và xử lý tài sản bảo đảm. Điều 292 về “Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ”, BLDS năm 2015 quy định có 9 bên pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bao gồm: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lưu quyền sở hữu, bảo lãnh, tín chấp và cầm giữ tài sản. Việc bảo lãnh có thể là bảo lãnh ngân hàng hoặc bảo lãnh của pháp nhân hay cá nhân khác.

Tuy nhiên trong quan hệ tín dụng thì chỉ liên quan đến 5 biện pháp bảo đảm là cầm cố, thế chấp, ký quỹ, bảo lãnh và tín chấp và cũng được gọi là các hợp đồng bảo đảm. Hợp đồng tín dụng không liên quan trực tiếp đến 3 biện pháp ký cược, bảo lưu quyền sở hữu và cầm giữ tài sản. Riêng biện pháp đặt cọc, có thể áp dụng trong quan hệ tín dụng tuy nhiên gần như không xuất hiện trên thực tế.

Vì bảo lãnh ngân hàng là một biện pháp bảo đảm nhưng đồng thời cũng là một hợp đồng tín dụng, nên có thể lại sử dụng các biện pháp bảo đảm khác như ký quỹ, cầm cố, thế chấp để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ trong quan hệ giữa các bên.

1.4. Mối quan hệ giữa tín dụng và bảo đảm

Trường hợp chỉ có tranh chấp về hợp đồng bảo đảm, không có tranh chấp về tín dụng, thì vẫn phải khởi kiện giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng, chứ không khởi kiện độc lập hợp đồng bảo đảm, vì tín dụng là hợp đồng chính, bảo đảm là hợp đồng phụ. Hay nói cách khác, hợp đồng bảo đảm phụ thuộc vào hợp đồng tín dụng vì là một bộ phận của hợp đồng tín dụng.

Dù tín dụng là hợp đồng chính, nhưng nếu bị vô hiệu thì không dẫn đến việc vô hiệu hợp đồng bảo đảm là hợp đồng phụ theo quy định tại khoản 2, Điều 407 về “Hợp đồng vô hiệu”, BLDS năm 2015.

Xem thêm >>> dịch vụ kế toán tại Hà Ni

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Please enter your name here

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.